Mới đây, Thông tư 06/2021/TT-BLĐTBXH (TT 06/2021) đã được ban hành để sửa đổi một số quy định của Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH (TT 59/2015) hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH). Theo đó, từ ngày 01/09/2021, sẽ có nhiều thay đổi lớn ảnh hưởng đến người tham gia BHXH bắt buộc.

Khoản 1 Điều 1 TT 06/2021 hướng dẫn:

Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đồng thời là người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên sẽ phải tham gia BHXH bắt buộc theo nhóm đối tượng người lao động (NLĐ) làm việc theo hợp đồng.

Đây là một quy định hoàn toàn mới mà trước đó, TT 59/2015 chưa đề cập. 

Trước đây, theo quy định tại điểm b Điều 6 TT 59/2015, trường hợp thời gian nghỉ ốm đau có ngày lẻ không trọn tháng thì mức hưởng được tính như sau:

Mức hưởng ốm đau đối với bệnh cần chữa trị dài ngày

=

Tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc : 24 ngày

x

Tỷ lệ hưởng (%)

x

Số ngày nghỉ

TT 06/2021 vẫn tiếp tục kế thừa quy định này, đồng thời bổ sung quy định về mức hưởng tối đa khi tính theo công thức này.

Cụ thể, theo khoản 2 Điều 1 TT 06/2021mức hưởng tối đa đối với thời gian nghỉ ốm đau lẻ tháng bằng mức trợ cấp ốm đau một tháng

Trước 01/09/2021: Mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của chính tháng NLĐ nghỉ ốm đau.

Căn cứ khoản 3 Điều 1 TT 06/2021, NLĐ tham gia BHXH bắt buộc khi bị ốm đau, tai nạn (không phải tai nạn lao động), nghỉ việc chăm con dưới 07 tuổi ốm từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (bao gồm cả trường hợp nghỉ việc không hưởng tiền lương) thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên cơ sở mức lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Thậm chí nếu các tháng liền kề tiếp theo NLĐ vẫn tiếp tục bị ốm và phải nghỉ việc thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Liên quan đến chế độ thai sản dành cho nam khi vợ sinh con, TT 06/2021 đã bổ sung:

“Trường hợp người mẹ tham gia bảo hiểm xã hội nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con mà người cha đủ điều kiện quy định tại điểm a khoản này thì người cha được hưởng trợ cấp một lần khi sinh con theo Điều 38 của Luật Bảo hiểm xã hội.”

Mức trợ cấp 01 lần = 2 tháng lương cơ sở/con.

Trong khi đó, tại TT 59/2015, người chồng chỉ được nhận trợ cấp 01 lần khi vợ sinh con nếu thuộc một trong 02 trường hợp sau:

  • Chỉ có cha tham gia BHXH thì cha phải đóng từ đủ 06 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh con.
  • Người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 06 tháng trở lên trong 12 tháng tính đến thời điểm nhận con.

Ngoài ra, TT 06/2021 cũng bổ sung quy định về thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nam khi vợ sinh con. Theo đó nếu nghỉ nhiều lần thì thời gian bắt đầu nghỉ việc của lần cuối cùng vẫn phải trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con và tổng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không quá thời gian quy định. 

Đây cũng là một trong những điểm mới đáng chú ý của TT 06/2021. Khoản 6 Điều 1 hướng dẫn:
Chế độ thai sản được tính theo số lượng con mà lao động nữ đã sinh ra, không kể còn sống hay đã chết.
Tại khoản 3 Điều 10 TT 59/2015 đang áp dụng hiện nay, lao động mang thai đôi trở lên mà khi sinh nếu có thai bị chết hoặc chết lưu thì chế độ thai sản chỉ giải quyết đối với con còn sống nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ vẫn được tính theo số con được sinh ra. 

Theo quy định tại khoản 7 Điều 1 TT 06/2021, thời gian hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý; thời gian lao động nam nghỉ khi vợ sinh con; khi thực hiện các biện pháp tránh thai mà trùng thời gian nghỉ phép hằng năm, nghỉ việc riêng, nghỉ không hưởng lương, NLĐ sẽ không được tính hưởng chế độ thai sản.

Đây là quy định hoàn toàn mới mà trước đó TT 59/2015 chưa hề đề cập.

 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật BHXH năm 2014, lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày.
Khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc này được xác định tính từ ngày hết thời hạn được hưởng chế độ thai sản mà sức khỏe của NLĐ chưa phục hồi (theo khoản 8 Điều 1 TT 06/2021).

Trước đó, chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. 

Khoản 13 Điều 1 TT 06/2021 hướng dẫn:

Trường hợp bộ đội, công an bị tước quân tịch, tước danh hiệu công an nhân dân sẽ hưởng chế độ hưu trí nếu đáp ứng đủ các điều kiện dành cho NLĐ bình thường.
Trong khi đó, nếu không bị tước quân tịch, danh hiệu công an nhân dân, những người này sẽ được nghỉ hưu sớm hơn 05 tuổi so với người lao động thông thường có cùng điều kiện.

Đây cũng là một trong những bổ sung cần thiết để tháo gỡ vướng mắc trong quá trình áp dụng luật hiện nay.

TT 06/2021 đã bổ sung thêm quy định liên quan đến việc xét tuổi của thân nhân NLĐ để hưởng chế độ tuất hằng tháng. Thời điểm xem xét tuổi trong trường hợp này được xác định là kết thúc ngày cuối cùng của tháng NLĐ chết, nếu hồ sơ không có ngày tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh để tính tuổi làm cơ sở giải quyết chế độ tử tuất.

Đồng thời, Thông tư này cũng nêu rõ, thân nhân NLĐ đã được giải quyết hưởng trợ cấp tuất hằng tháng mà sau đó có thu nhập cao hơn mức lương cơ sở thì vẫn được hưởng trợ cấp theo quy định.

Ngoài ra, NLĐ đang tham gia hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH đồng thời là người đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng khi chết thì thân nhân của người đó được lựa chọn giải quyết chế độ tử tuất với mức hưởng cao hơn của một trong hai đối tượng trên khi chết.


 

Bình luận của bạn sẽ được duyệt trước khi đăng lên