Ngày 23/03/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 về số giờ làm thêm trong 01 năm, trong 01 tháng của người lao động (NLĐ) tại bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội.

Số giờ làm thêm trong 01 năm

1. Trường hợp người sử dụng lao động (NSDLĐ) có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 01 năm, trừ các trường hợp sau đây:

a) NLĐ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi;

b) NLĐ là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

c) NLĐ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;

d) Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;

đ) Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

2. Không áp dụng khoản 1 Điều này đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật Lao động.

Số giờ làm thêm trong 01 tháng

Trường hợp NSDLĐ được sử dụng NLĐ làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 01 tháng.

⇒ Như vậy, số giờ làm thêm tối đa trong 01 tháng đã tăng từ 40 giờ (theo quy định cũ) lên 60 giờ.

Ngoài ra, Nghị quyết cũng nêu rõ NSDLĐ có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nâng cao năng suất lao động và các biện pháp khác nhằm giảm thiểu việc làm thêm giờ; trong trường hợp phải làm thêm giờ, NSDLĐ thực hiện các chế độ phúc lợi bảo đảm cho NLĐ có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động.

Hiệu lực thi hành

  • Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 04 năm 2022, trừ quy định tại khoản 2 Điều này.
  • Quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.

 

Bình luận của bạn sẽ được duyệt trước khi đăng lên